LỜI GIỚI THIỆU
Cuốn sách “Bác Hồ, con người và phong cách”, ra mắt bạn đọc cách đây đã trên mười năm. Do nội dung và hình thức viết theo lối kể chuyện, với tấm lòng yêu kính, nhớ ơn Bác nên sách đã được đông đảo đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài tìm đọc. Sách đã được một số nhà xuất bản in lại, hoặc trích đăng, sử dụng một số bài viết. Nhiều người đã dựa vào các mẩu chuyện trong sách tham dự cuộc thi kể chuyện Bác Hồ và đạt được giải cao.
Do yêu cầu của bạn đọc, để góp phần phát huy kết quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, lần này NXB Trẻ tái bản, bổ sung có chú thích, sắp xếp lại những bài trùng lặp.
Chúng tôi chân thành mong mỏi bạn đọc tham gia ý kiến để lần in sau có thêm được những thông tin mới, hy vọng cuốn sách sẽ là người bạn thân thiết của mọi gia đình, để mỗi người chúng ta học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ.
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
&
BÁT CHÈ XẺ ĐÔI
Đồng chí liên lạc đi công văn 10 giờ đêm mới đến. Bác gọi mang ra một bát, một thìa con.
Rồi Bác đem bát chè đậu đen, đường phên mà anh em phục vụ vừa mang lên, xẻ đôi cho đồng chí liên lạc.
- Cháu ăn đi.
Thấy đồng chí liên lạc ngần ngại, lại có tiếng đằng hắng bên ngoài, Bác giục:
- Ăn đi, Bác cùng ăn...
Cảm ơn Bác, đồng chí liên lạc ra về.
Ra khỏi nhà sàn, xuống sân, đồng chí cấp dưỡng bấm vào vai anh lính thông tin:
- Cậu chán quá. Cả ngày Bác có bát chè để bồi dưỡng làm đêm mà cậu lại ăn mất một nửa.
- Khổ quá, anh ơi! Em có sung sướng gì đâu. Thương Bác, em vừa ăn vừa xót nước mắt, nhưng không ăn lại sợ Bác, mà ăn thì biết cái chắc là các anh mắng mỏ rồi...
²
CON NGƯỜI ĐÃ BIẾT THẾ NÀO LÀ ĐÓI KHỔ
Năm 1900, trong khi gia đình đang sống túng thiếu tại Huế thì ông Sắc, (thân phụ Bác Hồ) được lệnh Nhà vua ra Thanh Hóa chấm thi hương năm Canh Tý.
Ông Sắc đi mang theo cậu Khiêm, con cả để đỡ bớt gánh nặng cho hai mẹ con, cậu Cung (tên Bác Hồ khi còn nhỏ) ở lại.
Bố đi vắng, mẹ con không còn nhận được lương nữa nên cậu Cung càng phải giúp đỡ mẹ nhiều hơn để mẹ dệt vải kiếm thêm tiền. Ngày ngày cậu cầm cái “vịm” (bát to) tìm đến chỗ bán thức ăn cho lính, mua cháo về để cùng ăn với mẹ. Năm ấy, vì sinh con, vốn đã ốm yếu, nay lại đói ăn, thiếu thuốc nên gần đến Tết thì bà Loan (mẹ Bác Hồ) qua đời. Không còn ai chăm sóc nữa, cậu Cung ngày hai buổi bồng em đi xin bú chực (do đó mà em có tên là Xin).
... Những năm 20 ở Pháp, Bác thường lui tới nhà các đồng chí cộng sản, đôi lúc được mời lưu lại dự bữa ăn tối.
Một lần, khi ngồi vào bàn ăn với mẹ nữ đồng chí G.
Véc-mét (vợ đồng chí M. Tôrê), sau này là Tổng Bí thư Đảng cộng sản Pháp, Bác Hồ đã nhặt những mẩu vụn bánh mì rơi trên bàn, để cẩn thận vào một tờ giấy, dành cho chim.
Đồng chí G. Véc-mét kể lại:
- Sau khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc ra về, mẹ tôi, bây giờ đã 92 tuổi nhận xét: “Con ạ, phải là một người biết thế nào là đói khổ mới biết quí từng vụn bánh”.
²
MỘT LẦN NHỚ MÃI
Đầu năm 1967, Bác về Thái Bình. Ô tô Bác đến bến Triều Dương thì phải sang phà. Mấy đồng chí ở tỉnh ủy đến đón, một cán bộ định giới thiệu với Bác, Bác nói:
- Thôi, thôi đi về cho sớm.
Ca-nô mắc cạn loay hoay mãi vẫn chưa cập được bến.
Trời chiều, không thể để Bác chờ lâu nên đành phải đưa thuyền nan ra đón Bác vào bờ. Bác trèo lên đê, hỏi cô Định thường vụ Tỉnh ủy:
- Có còn lối nào đi lý thú hơn nữa không? Cô Định thành thật thưa:
- Bác phải đi xe, chứ về chúng cháu còn xa lắm. Anh cán bộ đi theo Bác cười:
Bác phê bình khéo đấy! Rồi nói khẽ “tưởng bở”.
... Về xã Tân Hòa, cán bộ địa phương mời Bác ngồi ghế giữa ưu tiên. Bàn kê thì chật, Bác lựa mãi mới đứng lên được.
Bác mở đầu như một vế đố:
- Ghế ưu tiên nên người không nhúc nhích...
Anh chị em chỉ biết cười trừ.
... Đến bữa cơm, Bác giở cơm nắm ra ăn. Cô Định cứ năn nỉ mãi, mời Bác dùng cơm nóng. Bác bảo:
- Bác ăn cơm này đã quen rồi...
Trong bữa ăn có bát dưa. Cô Định cứ gắp mãi dưa.
Bác hỏi:
- Dưa có ngon không?
Cô Định nói một mạch:
- Ngon lắm ạ. Tỉnh chúng cháu năm nay trồng dưa thừa ăn còn đem bán cho các tỉnh bạn.
Bác tủm tỉm cười:
- Dưa này không phải là dưa Thái Bình đâu. Dưa này Bác đem từ Hà Nội về đấy...
*
* *
Sau này, cô Định nói: “Chỉ một lần ấy thôi mà tôi nhớ đời. Học được bao nhiêu điều”.
(Theo lời kể của chị Định)
²
ĂN CHAY CŨNG TỐT, NHƯNG ĂN THỊT THÍCH HƠN
Một trí thức theo đạo Phật được Bác Hồ dìu dắt đi theo cách mạng và nhờ thế mà thấy được khả năng của y học cổ truyền là bác sĩ Nguyễn Hữu Thuyết, nguyên Trưởng ty y tế Thái Nguyên, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và là Hội trưởng Hội Phật giáo Việt Nam năm 1945.
Năm 1945, bác sĩ Thuyết được Hòa thượng Đại Nguyên đến báo là “Ông Cụ” đến thăm Hội Phật giáo tại chùa Bà Đá, là trụ sở của Hội lúc bấy giờ.
Bác mặc bộ ka-ki vàng, tay cầm chiếc mũ cát cũ, vừa đi vừa lấy chiếc mũ vẫy vẫy đáp lại câu “A di đà Phật” của tăng ni. Bác hỏi thăm tình hình sức khỏe phật tử rồi lên Tam Bảo nói chuyện. Bác kể chuyện 5 vị sư ở Ngũ Đài Sơn bên Trung Quốc xuống núi đánh Nhật, chuyện ma vương, chúng sinh. Bác nói ma vương là thực dân Pháp, chúng sinh là dân ta. Muốn cứu chúng sinh thoát trầm luân bể khổ phải đánh đổ ma vương.
Bác ra về, bác sĩ Thuyết nói:
- Chắc “Ông Cụ” nghiên cứu cả kinh La Hiên cho nên mới hiểu đạo Phật uyên thâm đến thế.
Ít hôm sau, Hội Phật giáo làm cơm chay mời Bác dự. Trước bữa tiệc, bác sĩ Thuyết đọc một bài diễn văn dài nói về ích lợi của ăn chay theo khoa học, chứ không phải mê tín. Bác cười nói:
- Ăn chay cũng tốt, nhưng ăn thịt thích hơn. Sau này cần làm sao cho nhân dân ta được ăn nhiều thịt và ăn được nhiều mới tốt.
Khi Pháp trở mặt, rồi chiếm Khu 1 Hà Nội, bác sĩ Thuyết đã săn sóc, chạy chữa, phẫu thuật cho nhiều chiến sĩ.
Hôm được lệnh rút ra ngoài cùng một số người khác, bác sĩ Thuyết đã bò dưới gầm cầu Long Biên, sang Tứ Tổng, đến nơi an toàn. Thấy bác sĩ Thuyết, các đồng chí Nguyễn Văn Trân, Trần Duy Hưng nói đùa: “Con Cụ Hồ” đã ra... Vì hay “đề cao”, ca ngợi Bác nên anh em đặt cho bác sĩ Thuyết tên ấy.
Bác sĩ Thuyết nhớ mãi câu này và rất vinh dự, sung sướng vì được là “Con Cụ Hồ” trong khi mình là “con của Phật”.
²
“VỪA ĐẸP VỪA ĐỠ CHÓI MẮT ĐỒNG BÀO”...
Năm 1956, Bác Hồ đón một vị Tổng thống tại khu vườn trong Phủ Chủ tịch.
Một số công nhân nhà máy điện Hà Nội được (như lời Bác dặn) “mời vào mắc đèn điện trên các cành cây giúp Bác”.
Anh em làm việc suốt ngày, dòng dây dẫn điện lắp đèn nhiều loại màu sắc trên ngọn, trên cành trong các lùm cây.
Khoảng 19 giờ 30 cùng ngày, Bác ra vườn thăm anh em. Bác nói:
- Các chú công nhân bật đèn lên cho Bác xem đi.
Sau khi đóng cầu dao, những bóng đèn điện bỗng vụt hiện ra, lung linh như trong một hội hoa đăng. Đồng chí Tổ trưởng công nhân điện mời Bác đi xem và kiểm tra.
Bác chú ý từng ngọn đèn, từng đoạn dây dẫn đã an toàn chưa, gật gật đầu tỏ ý hài lòng.
Đến một đèn pha chiếu sáng đặt dưới một gốc cây, Bác dừng lại nói:
- Ngọn đèn này phải để khuất trong lùm cây, vừa đẹp vừa đỡ chói mắt đồng bào đi qua đường.
Bác nhanh nhẹn bước tới ngọn đèn. Đồng chí tổ trưởng Dương Văn Hậu lo Bác vấp ngã vì đôi guốc mộc dưới chân Bác đi trên đường rải sỏi, chạy vội đến:
- Bác để chúng cháu làm.
Nhưng Bác đã cúi xuống, rất “nghề nghiệp”, hai bàn tay bưng lấy thân ngọn đèn pha giấu vào trong một lùm cây đinh hương.
Ngọn đèn pha mới được đặt, đẹp hẳn lên, người ngoài nhìn vào không bị chói mắt, mà chỉ thấy những tia sáng chiếu qua các kẽ lá hắt lên một màu xanh dịu.
Lần sau, anh em nhà máy điện Hà Nội lại được đến Phủ Chủ tịch mắc đèn dây để Bác tiếp khách.
Rút kinh nghiệm lần trước, lần này anh em làm khác hẳn lối treo đèn cũ như thể để thưa với Bác “phải luôn luôn đổi mới, không ngừng phát huy sáng kiến” - như lời Bác dạy.
Anh em đặt một dây đèn màu từ dưới gốc cây dừa nước lên ngọn rồi tỏa ra các cành, mỗi cành một đèn màu khác nhau. Ở các thân cây có quả đèn màu trắng, cành cây đèn màu xanh, gần quả, một chùm đèn nhỏ màu đỏ. Chếch hai bên đặt hai đèn pha giấu trong lùm cây hắt nghiêng lên.
Như lần trước, vừa chập tối, Bác đã đến trước khách, thăm anh em công nhân điện và kiểm tra. Bác khen:
- Lần này các chú mắc đẹp đấy. Chắc khách quí của chúng ta cũng sẽ khen...
Bác lấy thuốc lá chia cho anh em công nhân điện mỗi người một điếu (sau này được biết là thuốc lá thơm Cuba do Thủ tướng Phiđen Cátxtơrô tặng Bác). Bác chia gần hết hộp thuốc. Một công nhân trẻ, thấy Bác vui, hộp thuốc đã cạn, muốn có một kỷ niệm về Bác, mạnh dạn thưa với Bác xin cái hộp. Bác cười và nói:
- Các chú đã có phần rồi. Cái hộp này Bác để dành cho các cô để các cô đựng kim chỉ chứ!
(Theo đồng chí Dương Văn Hậu)
²
BỮA CƠM GIA ĐÌNH
Khoảng cuối năm 1951, trong một lần đến thăm và nói chuyện với học viên lớp chính trị của quân đội ở Việt Bắc, Bác bảo anh Phương - chồng tôi là cán bộ phụ trách lớp:
- Chiều nay, chú cho Bác ăn cơm, vì nói chuyện xong, tối, Bác còn phải đi họp với một chi bộ ở Định Hóa.
Bấy giờ tôi cũng làm văn thư ở Hiệu Bộ, nên anh Phương cử người nhắn tôi chuẩn bị.
Công việc của Bác xong xuôi, Bác về đến cơ quan thì cơm nước cũng đã sẵn sàng. Sinh hoạt ở rừng còn thiếu thốn, kham khổ. Anh em muốn “bồi dưỡng” Bác để Bác khỏe, nhưng lại sợ. Nhưng rồi cũng quyết định thịt một con gà “tăng gia”, kiếm ít măng rừng làm cơm mời Bác.
Bác ngồi vào bàn ăn, bảo anh Văn, hai vợ chồng tôi và đồng chí cảnh vệ cùng ăn. Tôi cứ một mực từ chối:
- Thưa Bác cháu ăn rồi. Mời Bác và các anh, các chú xơi cơm đi...
Mãi sau, Bác mới đồng ý và bắt đầu dùng cơm. Vào bữa Bác nói:
- Cô cho Bác xin quả ớt. Tôi vội thưa:
- Thưa Bác, trong bát măng có ớt rồi đấy ạ.
Nhưng khi ăn, Bác tìm mãi không thấy ớt. Tôi ngại quá, bèn nói thật:
- Thưa Bác, chúng cháu sợ Bác ăn ớt hại sức khỏe nên không dám cho vào măng nấu ạ.
Bác quay sang anh Phương:
- Chắc chú lệnh cho cô văn thư chứ gì. Thế là chú quan liêu rồi...
Anh Văn tủm tỉm cười, Bác nói thêm:
- Ớt là vitamin E của Bác đấy.
Bữa cơm của Chủ tịch nước giản dị, vui vẻ, thân mật như bữa cơm trong một gia đình ấm cúng.
Cơm nước xong, Bác hỏi tôi:
- Cô Thư được mấy cháu, tên là gì? Anh Phương đỡ lời tôi:
- Thưa Bác, được 3 cháu gái đặt tên là Thu Thủy, Thu Thảo, Thu Vân.
Bác cười hiền từ, nói:
- Tôi có hỏi chú đâu! Sao tên đặt “văn chương” thế! Gọi là Thu Ngô, Thu Khoai, Thu Sắn có hay không?
Mọi người cùng cười vui vì biết Bác liên hệ với phong trào tăng gia sản xuất, trồng thêm màu ngô, khoai, sắn... sản xuất nhiều lương thực đóng thuế
nông nghiệp nuôi bộ đội đánh giặc mà Chính phủ mới phát động.
Lát sau, Bác lại bảo:
- Bác nói vui thế thôi. Những cái tên Việt Nam ấy rất đẹp.
Chưa kịp nghỉ ngơi, Bác đã chuẩn bị lên đường. Bác đeo ba-lô đi trước hai đồng chí cảnh vệ, anh Văn tiếp bước sau Bác. Mới đông mà sương chiều Việt Bắc đã xuống rất nhanh tụ thành những đám mây lụa mỏng trắng bìa rừng.
Chúng tôi nhìn theo Bác, ung dung, khoan thai như đi dạo cảnh thiên nhiên hùng vĩ, ngỡ ngàng như vừa được qua một giấc mơ đẹp trong một bữa cơm gia đình.
(Theo lời chị Thu Hương)
²
NHẢY MỘT NHẢY
Cách mạng tháng Tám bùng nổ, hơn một năm sau,
tiếng súng toàn quốc kháng chiến chống Pháp
vang lên. Từng đoàn,
từng đoàn cán bộ, đảng viên, công nhân, viên chức, thanh niên, trung
niên và không ít người già rời thủ đô và các thành thị về nông thôn, lên miền núi công tác trên mọi lĩnh vực hoạt động. Đời
sống thật gian khổ, kham khổ và cũng khắc khổ. “Món ăn văn hóa” thường chỉ có bài đơn ca, đồng ca, những chuyện tiếu lâm, những thiên độc tấu... động viên chính trị.
Thắng lợi chiến
dịch mùa thu 1950 mở thông những đường
qua lại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nhiều đoàn cán bộ, học sinh...
từ miền Bắc sang Bắc Kinh
và Hoa Nam công
tác, trao đổi kinh nghiệm, tham
Những người từ Trung Quốc về thỉnh thoảng gọi
nhau bằng tiếng
“quan hỏa”: “Theo ý
theo” (khiêu nhất
khiêu). Bác dịch nôm na vui đùa từng chữ một là: “Nhảy một nhảy”.
Một hôm, trong một
cuộc họp của Mặt trận Liên Việt có đủ các giới công, nông, thanh, phụ, già, trẻ, gái, trai, đến giờ nghỉ, đồng chí điều khiển hội nghị cũng đề
nghị mọi người nhảy múa cho vui. Ra sân, các giới thanh niên, trung niên, từng tốp, từng tốp, vừa vỗ tay vừa diễn ương ca. Một số đồng chí đảng viên những năm ba mươi và một số vị nhân sĩ, thân sĩ
đứng nhìn, biểu thị nhiệt tình
ủng hộ và cổ vũ bằng những ánh mắt nụ cười. Trong số này
có bà Thục Viên, một nhà giáo dạy học đã nhiều năm ở Hà Nội
và là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên, được nhân dân
thủ đô tin cậy, quý mến.
|
quan và học tập. Trong những hành lý văn hóa đem về có món “nhảy múa” mà đầu trò là điệu “ương ca”. Món sinh hoạt văn hóa mới này nhanh chóng được số anh em công tác tại các cơ quan Văn phòng Trung ương Đảng yêu thích. Bác Hồ vui vẻ khuyến khích bằng sự trực tiếp tham gia của mình, nhất là sau mấy giờ lao động buổi chiều, kết hợp nghệ thuật với thể dục.
Bỗng đâu, Bác Hồ từ trong phòng họp bước ra,
đi thẳng tới chỗ các vị cao niên,
vui vẻ mời: “Chúng ta cũng nhảy một nhảy chứ?”. Rồi Bác khoác tay bà Thục Viên... Bất ngờ, bị động và cũng hào hứng, bà Thục Viên ngoắc chặt khuỷu tay của Bác. Bác bước dồn dập và quay tròn. Bà
hối hả theo và quay theo.
Mấy tuần sau, tôi theo anh Trường Chinh đến dự
một cuộc họp Thi đua Ái quốc tổ chức tại Văn Lãng, dưới chân đèo Khế. Họp đến gần nửa buổi, cuộc thảo luận trở thành tranh cãi rất gay go. Đồng chí điều khiển hội nghị lúng túng. Bác Tôn
Đức Thắng, ngồi ở giữa hàng ghế đầu, bỗng đứng phắt
lên, nói to:
“Thôi, nhảy một nhảy đã nào”.
Mọi người
vỗ tay ran rồi ùa ra sân. Chỉ trong chốc
lát đã có cảnh tượng nhộn nhịp sol la sol...
Đồng chí Trường
Chinh, đang vừa nghe vừa xem lại bản đánh máy bài nói chuyện của mình, quay lại cười với tôi:
- Hay nhỉ! Vui nhỉ!
- Thưa anh,
cũng là một bước nhảy “bài phong” giản dị.
|
Giữa sân, các tốp nhảy trẻ trung đều nhìn về phía Bác. Tiếng vỗ tay đánh nhịp và tiếng “sol la sol” chuyển thành lạc điệu và lộn xộn. Ngoài hàng rào, sau một bụi tre, mấy cô gái người Tày đứng nhìn say sưa và có phần ngơ ngác. Chỉ một chốc, bà Thục Viên luống cuống “bắn” cả một chiếc dép vào chân Bác Hồ... Cũng là vừa lúc có chuông vào họp lại.
- Đúng, Bác Hồ cổ vũ cho đời sống mới, văn
hóa mới, giản dị và hiệu quả như thế
đấy.
QUANG
ĐẠM kể(1)
NÊN PHẢI HẾT SỨC CẨN THẬN
Hồi Bác Hồ ở Pắc Bó, để giữ bí mật, nước sinh hoạt được
đựng trong những ống dài để trong
hang. Trừ những khi ốm đau, sáng nào Bác cũng đi “kỉn” nước
(tiếng Tày “kỉn” là lấy).
Ống nước làm bằng ống luồng, hoặc bương (loại
tre lớn) sẵn trong rừng, đục thông các “mắt” lấy dây thừng hay mây buộc lại đầu trên và dưới,
để gánh bằng đòn.
Có ống không cần buộc dây, để vác thẳng lên vai.
Một sáng sớm, trời còn
sương, mặt trời chưa lên tỏ, Bác và một đồng chí bảo vệ, mỗi người hai
ống trên vai, ra suối “kỉn” nước. Bác đặt chân nhẹ nhàng lên các hòn đá, vục ống xuống suối lấy đầy nước, dựng vào một hòn đá, khỏa nước rửa chân tay... Đồng chí bảo vệ tuy là người
miền núi, địa phương nhưng
bước đi không vững, trên vai lại hai ống nước nặng, đặt ống không thăng bằng, nên vấp đá, chẳng may trượt ngã.
Bác đến nâng đồng chí dậy, dạy cách đặt, cách vác ống
nước, cách đi trên đá. Rồi hai bác cháu ra về.
Lên bờ,
Bác nói:
- Làm việc nước nặng nề, khó khăn nên phải hết sức cẩn thận
cháu ạ.
(Theo lời đồng chí Thúy
Bách)